Trắc nghiệm tính cách Big Five personality traits test

Trắc nghiệm tính cách Big Five personality traits test là một trắc nghiệm tâm lý phổ biến trong nghiên cứu khoa học và có độ tin cậy cao. Trắc nghiệm này có nhiều phiên bản khác nhau và có một số tên gọi như thang tính cách Big Five, Five Factor Model, Big Five personality traits.

Big Five đánh giá 5 khía cạnh tính cách của mỗi người bao gồm: hướng ngoại (extraversion), tận tâm (conscientiousness), dễ chịu (agreeableness), sẵn sàng trải nghiệm (openness to experience) và neuroticism (tâm lý bất ổn).

Hướng ngoại (extraversion): Người có điểm hướng ngoại cao thường thích tham gia các bữa tiệc tùng, thích tìm kiếm và cần các nguồn kích thích từ môi trường xung quanh, rất hăng hái, nhiệt tình, theo trường phái hành động, làm trước nghĩ sau, thích nói chuyện và khẳng định mình. Họ thường rất tự tin và thoải mái, tràn trề sức sống và rất tích cực. Trong công việc, họ thường thích làm việc với người khác và thích các công việc có bề rộng hơn chiều sâu.

Ngược lại, người có điểm hướng ngoại thấp thường ít hòa mình với xã hội, thường rất yên lặng, không nổi bật. Họ tập trung vào thế giới bên trong hơn là sự kích thích bên ngoài. Thay vì thay đổi thế giới thì người hướng nội lại thích nghĩ và tìm hiểu về nó hơn. Họ thích những công việc có chiều sâu hơn là chiều rộng.

Tận tâm (conscientiousness): Người có điểm cao ở mặt này thường có mong muốn hoàn thành công việc được giao một cách tốt nhất, và thường đặt ra mục tiêu để đạt được những thành tựu trong công việc. Xu hướng làm việc theo hệ thống và đáng tin cậy, có kỷ luật cho bản thân, có trách nhiệm với công việc và thường lên kế hoạch mọi thứ trước hơn là hành động bộc phát bốc đồng. Đặc điểm tính cách ngăn nắp, có hệ thống, cẩn thận, hoàn hảo, suy tính thiệt hơn. Những người có điểm thấp ở mặt tính cách này thường rất dễ dãi, không có mục tiêu nhất định, thường không đáng tin cậy. Một số nghiên cứu chỉ ra những người có điểm thấp thường có xu hướng phạm pháp, cũng như thất nghiệp, vô gia cư và tù tội. Họ cũng gặp khó khăn khi tiết kiệm tiền. Hơn nữa một người có chỉ số tận tâm và dễ chịu thấp thì thường lạm dụng chất nhiều hơn.

Dễ chịu (agreeableness): Những người có điểm cao ở mặt này thường có xu hướng tin rằng đa phần mọi người rất trung thực, tốt bụng và đáng tin cậy. Họ thường có lòng vị tha và hay giúp đỡ người khác. Xu hướng dễ động lòng và hợp tác hơn là nghi ngờ và đối nghịch. Họ tốt bụng, thông cảm, hợp tác, ấm áp và quan tâm, hay bị xem là ngây thơ, dễ bảo. Ngược lại, những người có điểm thấp ở mặt này thường gây tổn thương đến những người khác, có tính cạnh tranh, thách thức cao, có đôi khi được coi là khiêu khích hoặc không đáng tin. Một số nghiên cứu cho thấy có mối tương quan giữa độ dễ chịu thấp với sự nóng nảy và kích động ở thanh thiếu niên. Những người có độ dễ chịu thấp cũng thường có định kiến chống lại những nhóm bị bêu xấu như béo phì. Độ dễ chịu thấp cũng có tương quan tới một số bệnh tâm lý như xu hướng ái kỷ (yêu bản thân) và chống đối xã hội.

Sẵn sàng trải nghiệm (openness to experience): Những người có điểm cao ở mặt này thường rất khó dự đoán và không tập trung. Họ dễ lĩnh hội những tin tức giải trí và thách thức những mặt văn hóa của cuộc sống cũng như những suy nghĩ và cảm xúc cá nhân.Thích phiêu lưu trải nghiệm, biết ơn nghệ thuật, hiếu kỳ, có những ý tưởng độc đáo, có óc thẩm mỹ… là các đặc điểm của mặt tính cách này. Nó phản ứng mức độ hiếu kỳ một cách thông minh, tính sáng tạo thích trải nghiệm mà một người có. Một số nghiên cứu tìm ra mối tương quan tích cực  giữa mặt tính cách này và các bài kiểm tra IQ.  Họ có trí thông minh kết tinh, tức là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cao. Các nghiên cứu khác cũng tìm ra những nền văn hóa đặt cao những giá trị sẵn sàng trải nghiệm này thường có tỷ lệ sử dụng chất kích thích cao.

Người có điểm thấp ở mặt này thường thực dụng, võ đoán và làm việc theo dữ liệu, đôi lúc thường được mô tả như quyết đoán và cứng nhắc. Họ thường rất truyền thống trong hành vi, và vẻ ngoài của mình, thích làm việc theo guồng quay nhất định, không thích trải nghiệm những thứ mới mẻ và có ít sở thích hơn. Vì thế họ thường gặp khó khăn khi thích ứng với sự thay đổi. Cảm xúc của họ rất phẳng lặng và khả năng chịu đựng thấp đối với những thế giới quan khác biệt.

Tâm lý bất ổn (neuroticism): Xu hướng dễ trải nghiệm những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, lo âu, trầm cảm, dễ tổn thương. Tâm lý bất ổn cũng chỉ mức độ vững chắc của cảm xúc và khả năng kiềm chế sự bốc bồng. Những người có điểm cao ở mặt này thường trải nghiệm những cảm xúc u uất, giận dữ, lo sợ, tội lỗi, và ganh ghét cao hơn người thường. Họ phản ứng rất tệ với stress và thường lý giải những tình huống bình thường dưới dạng nguy hiểm, đáng lo ngại và những khó khăn nhỏ là cực kỳ tuyệt vọng. Họ chú ý quá mức đến vẻ bề ngoài hoặc hành vi của bản thân và gặp khó khăn trong việc kiềm nén những sự thôi thúc.

Ngược lại, những người có chỉ số thấp thường có cảm xúc vững chãi hơn, ít dao động và ít phản ứng với stress hơn. Họ thường có xu hướng bình tĩnh, không nóng nảy, và ít khi cảm thấy căng thẳng. Mặc dù họ có ít cảm xúc tiêu cực nhưng điều này không có nghĩa là họ trải nghiệm cảm xúc tích cực cao. Trải nghiệm tích cực cao là một đặc điểm của mặt hướng ngoại. Những người hướng ngoại có tâm lý bất ổn có thể trải nghiệm cảm xúc tích cực lẫn tiêu cực cao, dao động y như tàu lượn siêu tốc. Còn những người có điểm tâm lý bất ổn thấp (đặc biệt với những người hướng ngoại) thì có những báo cáo cho thấy họ hạnh phúc và hài lòng với cuộc sống của mình hơn.

Sức khỏe tâm lý và ứng dụng:

Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng người có chỉ số cao ở mặt tâm lý bất ổn thường dễ mắc các bệnh tâm lý liên quan đến cảm xúc như trầm cảm, lưỡng cực, lo âu, rối loạn ăn uống… Trong năm mặt tính cách thì tâm lý bất ổn và hướng ngoại có tính di truyền khoảng 30% và 40%. Những nghiên cứu về những đứa trẻ được nhận nuôi cho thấy sức ảnh hưởng từ môi trường lên hai tính cách này rất ít. Điều này cho thấy di truyền có sức ảnh hưởng lên những mặt tính cách này nhiều hơn là trải nghiệm. Và phụ nữ có chỉ số tâm lý bất ổn cao hơn đàn ông. Đây cũng là dễ hiểu khi tỷ lệ mắc các bệnh rối loạn cảm xúc ở phụ nữ cao hơn đàn ông.

Các nghiên cứu khác đồng thời cũng cho biết các nhà tuyển dụng, các công ty đánh giá cao chỉ số tận tâm của một người hơn những mặt tính cách khác. Đây cũng là một tính cách quan trọng nhất dẫn đến thành công trong công việc. Người có chỉ số cao ở mặt này có lương cao hơn. Ngoài ra còn có tính dễ chịu. Đây là hai mặt tính cách được coi trọng nhất trong công việc.

Ngược lại trong hôn nhân, mặt tính cách có ảnh hưởng nhất đến độ bền hôn nhân chính là tâm lý bất ổn. Các báo cáo về những cuộc hôn nhân của những người có chỉ số tâm lý bất ổn cao cho thấy họ ít hài lòng với hôn nhân của mình, ít hưởng thụ tình dục, cũng như ít hứng thú với bạn đời hơn, dẫn đến tỷ lệ ly hôn cao ở những người này.

Về mặt ứng dụng, mô hình năm yếu tố được dùng trong những trang web ví dụ như Okcupid hẹn hò để hệ thống có thể chọn ra những người thích hợp để giới thiệu. Trái với suy nghĩ thường thấy là những người có tính cách trái ngược nhau thường quen nhau lâu hơn do họ bù trừ cho nhau, thật ra các nghiên cứu cho thấy những người có tính cách giống nhau sẽ quen nhau lâu hơn, ít ly dị hơn vì họ giúp định hình, giữ vững tính cách của đối phương và của mình (vì tính cách có thể thay đổi theo trải nghiệm, theo thời gian).

Các bạn có thể làm Big five tại: https://www.truity.com/test/big-five-personality-test?ver=control

Hoặc làm bài test (tiếng Việt/tiếng Anh) và được đánh giá, phân tích sâu bởi chuyên gia tâm lý tại Trung tâm PPRAC và Phòng khám Ngọc Minh.

Nguồn tham khảo: ybox.vn